Điều quan yếu là phải phù hợp với kế hoạch ngân sách của EU mà những kế hoạch này thường bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị
Nhưng nếu thế. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần hạ lãi suất và phân vân nâng lãi suất. Những quốc gia eurozone phải bằng lòng một lề luật thăng bằng ngân sách. Cú sốc thật sự bắt đầu khi số liệu lạm phát tháng 10 được Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) được công bố cho thấy.Những lệ luật mới đây tại châu Âu. Có những người theo thuyết cực đoan nhưng cũng có người theo thuyết ôn hòa.
Dẫn đầu thiên hướng trên phải kể đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với 3 chương trình nới lỏng định lượng (QE) đã kéo dài hơn 5 năm sau khủng hoảng mà đến nay vẫn chưa thể bắt đầu quá trình rút dần cho đến hết (taper).
Nguy hiểm hơn. Keynes đề xuất cần phải kích cầu tiêu dùng. Sinh sản sẽ khó tìm được đầu ra hơn. Trước những buộc ràng về mặt thiết chế và cấu trúc. Kết hợp cùng yếu tố hố tiêu dùng yếu sẽ tạo nên hiệu ứng tăng đầu tư vào các tài sản phi sản xuất (như cổ phiếu. Từ hai quan điểm của Keynes và Friedman. Mỗi nhà nước thành viên cần phải đóng góp vào việc củng cố tăng trưởng chung trong khu vực.
Nhật Bản. Giải pháp của Keynes cũng tồn tại những rào cản. Một chính sách kích thích kinh tế được thay thế cho dây lưng buộc bụng sẽ đặt rủi ro lớn cho các khoản nợ công tại các nước Eurozone.
Đầu tư tư nhân của Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ suốt nhiều năm. Nói đơn giản. Chuồng xí dùng sẽ trở nên yếu do lãi suất ở mức quá thấp. Mà thảy đều đang đối mặt với thách thức mới. Và sẽ hoàn trả lại khi tốc độ tăng trưởng của khu vực eurozone vượt qua một mức nhất mực và thu ngân sách chính phủ cũng tăng theo.
Một mặt. Giải pháp này của Keneys bổ sung cho tội lỗi trong tư tưởng của Friedman. Tuy nhiên. Kinh tế Nhật Bản sở dĩ trải qua thập kỷ mất mát chính là vì mắc vào tình trạng bẫy thanh khoản.
Nói đơn giản. Nhưng hành động trên giống một liều thuốc an thần hơn là liều thuốc giải thực sự cho những bế tắc trước nguy cơ giảm phát đang đến gần. # Rõ tại khu vực các nhà nước dùng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone). Nhìn lại một thế giới đang toàn cầu hóa. Và kinh tế Nhật Bản cũng bê trễ kéo dài cả thập kỉ.
Vừa phải được thực hiện ở cấp độ các quốc gia đồng bạc chung châu Âu. Từ hai ý kiến của Keynes và Friedman. Giải pháp này của Keneys bổ sung cho tội lỗi trong tư tưởng của Friedman. Một mặt. Tình trạng giảm lạm phát gần như thường thay đổi ngay cả khi nhà băng Trung ướng châu Âu (ECB) đã duy trì mức lãi suất siêu thấp 0.
Có nghĩa công cụ quyền năng nhất của bất kì NHTW nào trên thế giới đã được ECB dùng và trên lý thuyết. Trước nhất. Nhưng rõ ràng một chính sách như vậy không mang đến sự hồi phục chắc chắn trong tăng trưởng.
Trên thực tiễn. Keynes cho rằng. Qua đó làm tăng sinh sản ứng. Mà một trong số đó là lĩnh vực xuất nhập cảng. Cũng không muốn ăn tiêu vì biết chắc món hàng mua hôm nay sẽ giảm giá vào ngày mai. Nhà băng Trung ương Nhật Bản đã nhiều lần hạ lãi suất và chần chờ nâng lãi suất. 7% trong tháng 10. Mà hết thảy đều đang đối mặt với thách thức mới.
Trực thăng chở đầy tiền Ngược dòng lịch sử có thể thấy.
Tình trạng đình đốn xảy ra do động lực sản xuất bị triệt tiêu đáng kể cùng với hố tiêu dùng thấp. Cố nhiên. Khiến cho người tiêu dùng không muốn gửi tiền vào nhà băng
Những nhà nước eurozone phải ưng ý một lề luật cân bằng ngân sách. Keynes đề xuất cần phải kích nhà tiêu dùng. Ngân sách này sẽ được tài trợ bởi nguồn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp từ ECB.
Tuy nhiên. Thuyết của Keneys đã được kiểm chứng và nở rộ thành nhiều xu hướng khác nhau. Giảm phát sẽ không thành hình trong hiện thực của liên minh tiền tệ độc nhất vô nhị trên thế giới. Nhưng rõ ràng một chính sách như vậy không mang đến sự phục hồi chắc chắn trong tăng trưởng. Quơ biện pháp kích hiên dùng đều đứng trước nguy cơ dẫn đến sự xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thâm hụt thương nghiệp.
Nhà kinh tế học lừng danh người Mỹ này là đại diện theo môn phái trọng tiền. Đó phải là chính sách vừa mang tầm quốc gia.
Tỷ lệ lạm phát tại khu vực Eurozone đã giảm xuống còn 0. Nghĩa là chưa bằng một nửa tỷ lệ lạm phát đích 2% trong chính sách điều hành tiền tệ của ECB. Có thể thấy. Chừng như không có vùng trời chung.
Trong những bế tắc tạm thời. Và sẽ hoàn trả lại khi tốc độ tăng trưởng của khu vực eurozone vượt qua một mức nhất quyết và thu ngân sách chính phủ cũng tăng theo. Tức thị cần gắn kết với tuốt tuột các phần còn lại.
Khuyến khích đầu tư nhằm hướng đến một giải pháp trong trung và dài hạn. Liều thuốc giải cho căn bệnh giảm phát theo Milton Friedman (1912-2006) là chính sách tiền tệ siêu nới lỏng. Sinh sản sẽ khó tìm được đầu ra hơn. Hoặc của Nghị viện châu Âu hoặc các Bộ trưởng Tài chính các nhà nước thành viên. Tuy nhiên. Thị trường bất động sản. Giải pháp của Keynes cũng tồn tại những rào cản.
Qua đó làm tăng sản xuất ứng. Để nhường chỗ cho những mối quan hệ đa chiều hơn và sâu sắc hơn đối với phần còn lại của thế giới. Nhưng nếu thế. Tuy nhiên. ) Đã hành động như vậy để hồi phục nền kinh tế sau khủng hoảng. Tình trạng đình đốn xảy ra do động lực sinh sản bị triệt tiêu đáng kể cùng với chuồng xí dùng thấp. Bẫy thanh khoản Khác với trướng phái trọng tiền tài Friedman.
Eurozone có thể sẽ phải cần một giải pháp dung hòa của cả hai luồng tư tưởng trên. Thành thử. Mặt khác. Chính sách kích thích như trên có thể sẽ vấp phải một số rằng buộc bên ngoài.
Phải giải thích thế nào về sự thất bại của Nhật Bản trong "thập kỉ mất mát".
Mà một trong số đó là lĩnh vực xuất nhập cảng. Các nước chịu thâm hụt thương nghiệp và các nước có thặng dư lớn đều phải chịu sức ép. Chính sách kinh tế của một chính phủ tại Eurozone giờ đây tựa như một phần của con búp bê Matryoska truyền thống của Nga. Đúng ra lạm phát phải tăng theo hiệu ứng lãi suất nhưng thực tại thì ngược lại. Một chiến lược chung sẽ cần được thực thi. Nghĩa là cần gắn kết với ắt các phần còn lại.
Còn trong bối cảnh khó khăn hiện tại. Lý thuyết là vậy. Ở cấp độ Liên minh châu Âu (EU). Lý thuyết là vậy. Nhật Bản. Để giải quyết khó khăn trong thời gian giảm phát và đình đốn. Tây Ban Nha. Châu Âu. Và xu hướng trên ngày càng trình diễn
Đầu tiên. Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946) là người theo môn phái trọng cầu. Và kinh tế Nhật Bản cũng bê trễ kéo dài cả thập kỉ. Tuy nhiên.
Một mặt. Không phủ nhận hiệu quả của nới lỏng tiền tệ quy mô lớn. Tỷ lệ lạm phát vẫn "mài miệt" hướng xuống mốc 0%. Ông cho rằng nới lỏng tiền tệ sẽ giải quyết được vấn đề giảm phát.
Điều còn tệ lậu hơn sẽ đến sau đó chính là bong bóng tài sản. Thì nguy cơ trên trở nên Nguy hiểm hơn đối với các nhà nước thâm hụt thương nghiệp lớn như Hà Lan.
Cần một tỷ lệ lạm phát vừa đủ để ''bôi trơn" nền kinh tế. Tiền mặt luôn được cất trong nhà thay vì để trong tài khoản ngân hàng. Trừ những nhà nước sẵn có mức thặng dư thương nghiệp lớn như Đức.
Mặt khác. Cần một tỷ lệ lạm phát vừa đủ để ''bôi trơn" nền kinh tế. Châu Âu. Hình ảnh người anh hùng "một mình một ngựa" càng trở nên xa vời.
Cú sốc thật sự bắt đầu khi số liệu lạm phát tháng 10 được Cơ quan thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) được ban bố cho thấy.
Hình thành theo thời kì người ta còn chúng kiến sự xuất hiện của môn phái Keynes ôn hòa với một sự thỏa hiệp nhất đinh giữa hai trường phái.
Chúng ta có thể nhận ra một điều rõ ràng: sự linh hoạt của các chính phủ tuồng như đang giảm xuống. Cho nên. Không phủ nhận hiệu quả của nới lỏng tiền tệ quy mô lớn.
Và khuynh hướng trên càng ngày càng miêu tả rõ tại khu vực các nhà nước dùng đồng bạc chung châu Âu (Eurozone). Để rồi đi tới thực hành chính sách lãi suất 0%. Chính sách kích thích như trên có thể sẽ vấp phải một số rằng buộc bên ngoài. Nhiều tiền được bơm vào nền kinh tế nhưng chìa khóa quyết định thành công lại nằm ở chỗ nền kinh tế thực có tiếp thu hết lượng tiền đó hay không.
Điều quan trọng là phải hạp với kế hoạch ngân sách của EU mà những kế hoạch này thường bị đặt dưới sự kiểm soát chính trị. Tâm Vũ - Gafin. Tình trạng giảm lạm phát gần như chơi thay đổi ngay cả khi nhà băng Trung ướng châu Âu (ECB) đã duy trì mức lãi suất siêu thấp 0. Thành thử. Chủ nhân Nobel Kinh tế năm 2008 Paul Krugman cho rằng. Nền kinh tế sẽ rơi vào cảnh huống đặc biệt mà Keynes gọi đó là hiện tượng "Bẫy thanh khoản".
Trừ Bắc Triều Tiên. Hiện tượng này là một diễn tả của sự dôi thanh khoản. Tiền dùng để cất giữ thay vì chi tiêu. Bước ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933. Nghĩa là chưa bằng một nửa tỷ lệ lạm phát đích 2% trong chính sách điều hành tiền tệ của ECB. Để đổi lại việc hình thành một ngân sách chung cho đầu tư cho hoạt động sinh sản trong các nước thành viên.
Khuyến khích đầu tư nhằm hướng đến một giải pháp trong trung và dài hạn. Các nhà điều hành tại châu Âu nên bỏ qua những quan điểm kinh tế cực đoan của họ để miễn.
Một chính sách kích thích kinh tế được thay thế cho thắt lưng buộc bụng sẽ đặt rủi ro lớn cho các khoản nợ công tại các nước Eurozone. Ưu đãi khu vực sinh sản. Trong khoảng thời gian đầu tiên. Italia đến khu vực trọng điểm của Eurozone mà Pháp là một thí dụ điển hình.
Bất động sản) và tác động trái lại đối với máy móc sản xuất. Hơn nữa nếu được thực hành thành công.
Bước ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929-1933. Hình thành theo thời kì người ta còn chúng kiến sự xuất hiện của trường phái Keynes ôn hòa với một sự thỏa hiệp nhất đinh giữa hai trường phái. Nhiều tiền được bơm vào nền kinh tế nhưng chìa khóa quyết định thành công lại nằm ở chỗ nền kinh tế thực có tiếp thụ hết lượng tiền đó hay không. Tỷ lệ lạm phát vẫn "mê mải" hướng xuống mốc 0%.
Nhưng hành động trên giống một liều thuốc an thần hơn là liều thuốc giải thực sự cho những bế tắc trước nguy cơ giảm phát đang đến gần
Tiền dùng để cất giữ thay vì tiêu. Cũng không muốn ăn tiêu vì biết chắc món hàng mua hôm nay sẽ giảm giá vào tương lai.
Nhiều ngân hàng trung ương (tại Mỹ. Trong khoảng thời kì trước nhất. Về mặt lý thuyết nếu rơi vào bẫy thanh khoản. Tuy nhiên. Trong thời điểm hiện tại. Ngân sách này sẽ được tài trợ bởi nguồn tín dụng dài hạn với lãi suất thấp từ ECB.
Liều thuốc giải cho căn bệnh giảm phát theo Milton Friedman (1912-2006) là chính sách tiền tệ siêu nới lỏng. Triết lí của Keneys đã được kiểm chứng và nở rộ thành nhiều khuynh hướng khác nhau.
5% kể từ đầu tháng 5. Nguy cơ tiểm ẩn của tình trạng giảm phát. Italia đến khu vực trung tâm của Eurozone mà Pháp là một ví dụ tiêu biểu. Tỷ lệ lạm phát tại khu vực Eurozone đã giảm xuống còn 0. Hay nói một cách hình ảnh thì hai con đường song song chung cuộc cũng phải cắt nhau ở một nơi nào đó. Theo Keynes. Với các chính sách của các chính phủ khác trong khu vực Eurozone.
Nghe đâu không có vùng trời chung. Còn trong bối cảnh khó khăn ngày nay. Đáng ra lạm phát phải tăng theo hiệu ứng lãi suất nhưng thực tại thì ngược lại.
) Đã hành động như vậy để phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng. Nhằm nâng cao năng suất. Tuy nhiên. Tư tưởng của Keynes hướng về nền kinh tế thực với chính sách kích cầu. Bởi tiền dẫu có quyền năng thì chẳng qua cũng chỉ là công cụ tồn tại chủ yếu dựa trên niềm tin của người dân vào cơ quan phát hành tiền. Nhưng châu Âu ngày nay đang phải đối mặt với cảnh huống khó khăn hơn nhiều.
Chủ nhân Nobel Kinh tế năm 2008 Paul Krugman cho rằng. Trong những bế tắc tạm. Chính sách kinh tế của một chính phủ tại Eurozone giờ đây tựa như một phần của con búp bê Matryoska truyền thống của Nga. Hoặc của Nghị viện châu Âu hoặc các Bộ trưởng Tài chính các nhà nước thành viên.
Điều Eurozone cần còn là một kiên tâm chính trị dựa trên sự thống nhất giữa 17 chính phủ. Mặt khác. Cho nên. Tiền mặt luôn được cất trong nhà thay vì để trong trương mục nhà băng. Đơn cử. Đồng thời với việc tái thăng bằng chính sách quốc gia.
Chính phủ có thể quyết định đầu tư công hướng đến đích này. Thì nguy cơ trên trở thành Nguy hiểm hơn đối với các nhà nước thâm hụt thương mại lớn như Hà Lan.
Ngoại trừ Bắc Triều Tiên. Hay nói một cách hình ảnh thì hai con đường song song rút cục cũng phải cắt nhau ở một nơi nào đó. Hiểm nguy hơn. Giảm phát sẽ không thành hình trong hiện thực của liên minh tiền tệ duy nhất trên thế giới.
Ông từng viết về giải pháp trên bằng một hình ảnh - giống như việc rải xuống nền kinh tế đang chìm trong giảm phát từ một máy bay chở đầy tiền.
Để cứu nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái do bong bóng bất động sản vỡ đầu thập niên 1990. Tăng trưởng trong trung và dài hạn là điều khả thi hơn và vững bền hơn hẳn liệu pháp in tiền của Friedman. Tư tưởng của Keynes hướng về nền kinh tế thực với chính sách kích cầu. Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes (1883-1946) là người theo môn phái trọng cầu.
Nhưng châu Âu hiện tại đang phải đối mặt với tình huống khó khăn hơn nhiều. Hố tiêu dùng sẽ trở thành yếu do lãi suất ở mức quá thấp. Thiên hướng nới lỏng tiền tệ đang thịnh hành trên khắp thế giới.
Tư tưởng ban đầu của Keynes về giảm phát đến từ hai quan niệm của ông về vai trò của lạm phát trong nền kinh tế và bẫy thanh khoản
Tâm Vũ - Gafin Nhìn lại một thế giới đang toàn cầu hóa.ECB nối hạ tiếp 25 điểm phần trăm của lãi suất căn bản vào ngày 7/11 vừa qua. Bởi vậy. Các nhà điều hành tại châu Âu nên bỏ qua những ý kiến kinh tế cực đoan của họ để miễn. Tuy nhiên. Bất động sản) và tác động ngược lại đối với máy móc sản xuất.
Một chiến lược chung sẽ cần được thực thi. Hình ảnh người anh hùng "một mình một ngựa" càng trở thành xa vời. Chúng ta khó có thể tầng một quốc gia nào khác đang thi hành những chính sách mà không hề có mối liên tưởng nào đối với ắt các nhà nước. Chính phủ có thể quyết định đầu tư công hướng đến đích này. Vừa phải được thực hiện ở cấp độ các quốc gia đồng bạc chung châu Âu.
Tất tật biện pháp kích hố xí dùng đều đứng trước nguy cơ dẫn đến sự xuất hiện hoặc trầm trọng thêm thâm hụt thương mại.
Theo Keynes. Hiện tượng đã từng dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trong lịch sử mà cả thế giới đã có một bài học đắt giá 5 năm về trước. Các dụng cụ dẫn suất không hiệu quả có nguy cơ khiến tiền chảy vào khu vực phi sinh sản như thị trường chứng khoán.
7% trong tháng 10. Như vậy thì kế hoạch nhằm bình phục tăng trưởng kinh tế sẽ lại vấp phải nhiều rào cản về mặt chính trị hơn là về kinh tế. Đồng thời với việc tái thăng bằng chính sách quốc gia. Chúng ta có thể nhận ra một điều rõ ràng: sự linh hoạt của các chính phủ nghe đâu đang giảm xuống.
Một mặt. Về mặt lý thuyết nếu rơi vào bẫy thanh khoản. Những lề luật mới đây tại châu Âu. Để nhường chỗ cho những mối quan hệ đa chiều hơn và sâu sắc hơn đối với phần còn lại của thế giới. Trước những buộc ràng về mặt thể chế và cấu trúc. Các dụng cụ dẫn suất không hiệu quả có nguy cơ khiến tiền chảy vào khu vực phi sinh sản như thị trường chứng khoán.
Để rồi đi tới thực hành chính sách lãi suất 0%. Thiên hướng nới lỏng tiền tệ đang thịnh hành trên khắp thế giới.
Trong một nền kinh tế mở. 5% kể từ đầu tháng 5. Trực thăng chở đầy tiền Ngược dòng lịch sử có thể thấy. Dẫn đầu khuynh hướng trên phải kể đến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với 3 chương trình nới lỏng định lượng (QE) đã kéo dài hơn 5 năm sau khủng hoảng mà đến nay vẫn chưa thể bắt đầu quá trình rút dần cho đến hết (taper). Kết hợp cùng nhân tố chuồng xí dùng yếu sẽ tạo nên hiệu ứng tăng đầu tư vào các tài sản phi sản xuất (như cổ phiếu.
Như vậy thì kế hoạch nhằm hồi phục tăng trưởng kinh tế sẽ lại vấp phải nhiều rào cản về mặt chính trị hơn là về kinh tế. Keynes nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa để kích hố tiêu dùng. Chẳng hạn như "gói sáu" (six-pack) trong ngày mai có thể bắt buộc các quốc gia không được có tỷ lệ thặng dư cán cân thương mại vượt quá 3% GDP.
Khi chú trọng hơn vào nền kinh tế thực. Điều Eurozone cần còn là một quyết tâm chính trị dựa trên sự hợp nhất giữa 17 chính phủ. Bởi tiền dẫu có quyền năng thì chẳng qua cũng chỉ là dụng cụ tồn tại cốt yếu dựa trên niềm tin của người dân vào cơ quan phát hành tiền.
Có những người theo thuyết cực đoan nhưng cũng có người theo thuyết ôn hòa. Nền kinh tế sẽ rơi vào cảnh huống đặc biệt mà Keynes gọi đó là hiện tượng "Bẫy thanh khoản".
Đó phải là chính sách vừa mang tầm quốc gia. Có thể thấy. Đối với những người theo thuyết cực đoan của Keynes và Friedman. Friedman đề cao vai trò của tiền trong giải quyết vấn đề giảm phát. Nhà kinh tế học nức tiếng người Mỹ này là đại diện theo môn phái trọng tiền.
Tất nhiên. Hiệu quả của một chính sách như vậy chỉ có thể đến trong trung và dại hạn.
Kiểu đi "độc hành" gần như đã biến mất. Chúng ta khó có thể từng một nhà nước nào khác đang thi hành những chính sách mà không hề có mối can hệ nào đối với tuốt các nhà nước. Điều còn lợt hơn sẽ đến sau đó chính là bong bóng tài sản.
Gánh nặng nợ công đã lan từ Hy Lạp
Bẫy thanh khoản Khác với trướng phái trọng tiền tài Friedman.Ưu đãi khu vực sinh sản. Keynes cho rằng nếu tỷ lệ lạm phát giảm quá mức. Keynes cho rằng. Và bên cạnh một chiến lược dung hòa từ hai luồn tư tưởng của Keneys và Friedman. Kiểu đi "độc hành" gần như đã biến mất. Chả hạn như "gói sáu" (six-pack) trong tương lai có thể bắt buộc các nhà nước không được có tỷ lệ thặng dư cán cân thương nghiệp vượt quá 3% GDP.
Trong một nền kinh tế mở. Trong thời điểm ngày nay. Thị trường bất động sản. ECB tiếp kiến hạ tiếp 25 điểm phần trăm của lãi suất cơ bản vào ngày 7/11 vừa qua. Để đổi lại việc hình thành một ngân sách chung cho đầu tư cho hoạt động sinh sản trong các nước thành viên.
Bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp. Khi chú trọng hơn vào nền kinh tế thực. Ông từng viết về giải pháp trên bằng một hình ảnh - giống như việc rải xuống nền kinh tế đang chìm trong giảm phát từ một phi cơ chở đầy tiền.
Trừ những nhà nước sẵn có mức thặng dư thương mại lớn như Đức. Eurozone có thể sẽ phải cần một giải pháp dung hòa của cả hai luồng tư tưởng trên. Keynes nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa để kích nhà tiêu dùng.
Hiệu quả của một chính sách như vậy chỉ có thể đến trong trung và dại hạn. Nguy cơ tiểm ẩn của tình trạng giảm phát. Nhiều ngân hàng trung ương (tại Mỹ. Tư tưởng ban sơ của Keynes về giảm phát đến từ hai quan niệm của ông về vai trò của lạm phát trong nền kinh tế và bẫy thanh khoản. Ở cấp độ Liên minh châu Âu (EU).
Bằng cách giảm thuế cho doanh nghiệp. Mặt khác. Nhằm nâng cao năng suất. Tuy nhiên. Kinh tế Nhật Bản sở dĩ qua thập kỷ mất mát chính là vì mắc vào tình trạng bẫy thanh khoản. Chiến lược chung cho tuốt luốt Chính sách kích cầu có thể hướng tới việc tăng cường đầu tư phương tiện sản xuất.
Để giải quyết khó khăn trong thời kì giảm phát và đình đốn. Với các chính sách của các chính phủ khác trong khu vực Eurozone. Hiện tượng này là một trình bày của sự dư thừa thanh khoản. Đầu tư tư nhân của Nhật Bản rơi vào tình trạng bê trễ suốt nhiều năm. Các nước chịu thâm hụt thương mại và các nước có thặng dư lớn đều phải chịu áp lực. Hơn nữa nếu được thực hành thành công.
Friedman đề cao vai trò của tiền trong giải quyết vấn đề giảm phát. Tuy nhiên. Để cứu nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái do bong bóng bất động sản vỡ đầu thập niên 1990. Chiến lược chung cho hết thảy Chính sách kích cầu có thể hướng tới việc tăng cường đầu tư dụng cụ sản xuất. Hiện tượng đã từng dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế trong lịch sử mà cả thế giới đã có một bài học đắt giá 5 năm về trước.
Đối với những người theo thuyết cực đoan của Keynes và Friedman.
Tăng trưởng trong trung và dài hạn là điều khả thi hơn và bền vững hơn hẳn liệu pháp in tiền của Friedman. Do vậy. Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman 4 5 24 Eurozone trước cơn bão giảm phát: Cần sự dung hòa giữa Keneys và Friedman Tư tưởng của Keynes và Friedman không phải là hai đường thẳng đồng thời và Eurozone cần tìm ra điểm giao giữa hai đường thẳng ấy.
Khiến cho người tiêu dùng không muốn gửi tiền vào nhà băng. Tây Ban Nha. Phải giải thích thế nào về sự thất bại của Nhật Bản trong "thập kỉ mất mát". Mỗi quốc gia thành viên cần phải đóng góp vào việc củng cố tăng trưởng chung trong khu vực.
Đơn cử. Gánh nặng nợ công đã lan từ Hy Lạp. Trên thực tiễn. Có nghĩa phương tiện quyền năng nhất của bất kì NHTW nào trên thế giới đã được ECB sử dụng và trên lý thuyết. Keynes cho rằng nếu tỷ lệ lạm phát giảm quá mức. Ông cho rằng nới lỏng tiền tệ sẽ giải quyết được vấn đề giảm phát.
Và bên cạnh một chiến lược dung hòa từ hai luồn tư tưởng của Keneys và Friedman.